
Bài viết này thảo luận về cách thức các thảm họa như COVID-19 được dùng như một thiết chế để tăng cường sự bóc lột người lao động Indonesia và cách các nhà lãnh đạo công đoàn và nhà hoạt động lao động đã phản ánh phong trào lao động ứng phó với hiện tượng đó ở Indonesia như thế nào.
Luật chống lại người dân
Tôi viết bài này vào cuối tháng 3 năm 2025. Thời điểm đó, trên đường phố của nhiều thành phố ở Indonesia tràn ngập những người biểu tình, bao gồm sinh viên, công nhân và công chúng nói chung. Điều đó diễn ra trong nhiều ngày. Họ yêu cầu bãi bỏ Luật Quân đội Indonesia (TNI). Luật này được Hạ viện thông qua vào ngày 20 tháng 3 năm 2025. Bản sửa đổi này bị cho là có vấn đề vì nó mâu thuẫn với quyền dân sự tối cao. Nó có một số điều khoản đặc biệt đáng ngờ vì nó “có thể làm mờ ranh giới giữa chính quyền dân sự và quân sự”. Điều này gợi nhớ đến thời kỳ Trật tự mới độc đoán và có thể là có nguy cơ dẫn đến sự trở lại của trật tự đó (Paat & Rivana, 2025; Saputra, 2025; Tempo, 2025). Quá trình sửa đổi luật cũng diễn ra vội vã, có “ít cơ hội cho công chúng tham gia hoặc ít có sự tham gia có ý nghĩa” (Saputra, 2025). Các nhà phê bình cho rằng sự thiếu minh bạch như vậy là “vấn đề thường gặp” trong quá trình thảo luận và soạn thảo dự luật của Hạ viện (Tempo, 2025).

Thật vậy, điều này nhắc chúng ta về “Luật Tổng hợp về Tạo việc làm” (Undang-Undang Cipta Kerja). Mặc dù bị công chúng phản đối trên diện rộng, Hạ viện đã thông qua luật này vào ngày 5 tháng 10 năm 2020, giữa thời điểm đại dịch COVID-19. Điều này cũng dẫn đến các cuộc biểu tình đòi bỏ luật này trên toàn quốc (Prasetyo, 2020; Lane, 2020). Trước khi điều luật này được thông qua, các tổ chức dân sự đã đề xuất rằng nên dừng thảo luận về dự luật, “trong khuôn khổ tôn trọng, bảo vệ và duy trì quyền con người cho tất cả người dân Indonesia”. Tuy nhiên, quá trình đó vẫn tiếp tục diễn ra trong “bức màn bí mật” (Panimbang, 2020).
Luật Omnibus chỉ có lợi cho các nhà tư bản và những người thân tín của họ. Luật này sửa đổi khoảng 79 điều hiện hành bao gồm các lĩnh vực như luật lao động, quy định khai thác mỏ và bảo vệ môi trường. Luật này nhằm thu hút đầu tư nước ngoài bằng các cơ chế cũ như khai thác lao động và tịch thu đất đai. Ngôn ngữ được sử dụng là “tạo việc làm” – nhưng tất nhiên, câu hỏi quan trọng hơn là “những loại việc làm nào?” – mặc dù những gì đang được bị chà đạp là phúc lợi của người dân Indonesia, và đặc biệt là người lao động, cũng như môi trường.
Chỉ xét riêng về vấn đề lao động, thay vì “tạo việc làm”, luật này làm tăng tính bất ổn của lao động và đe dọa đến an ninh việc làm. Luật này cũng dẫn đến tư nhân hóa hàng hóa và tư nhân hóa dịch vụ công; nó tấn công vào nhiều quyền lao động khác nhau, bao gồm các chế độ phúc lợi như nghỉ ốm và nghỉ hưu; nó loại bỏ một số tiêu chí quan trọng ảnh hưởng đến mức lương tối thiểu (như lạm phát) và các khía cạnh khác (xem Panimbang, 2020; Izzati, 2020; Prasetyo, 2020). Không có gì ngạc nhiên khi Ngân hàng Thế giới đã “bảo vệ mạnh mẽ” luật này, trong khi Hiệp hội Doanh nghiệp Indonesia và Phòng Thương mại Indonesia cũng đã thể hiện sự ủng hộ (Lane, 2020). Tư bản toàn cầu và tư bản địa phương sẽ được hưởng lợi từ quá trình chuyển đổi sang các loại công việc. Hãy nghĩ đến những công việc bấp bênh với mức lương thấp hơn, không có phúc lợi, không an toàn và chỉ làm tăng cường bóc lột. Điều này có thể diễn ra theo nhiều cơ chế và các chính sách hỗ trợ của nó trên thực tế lại làm giảm tiền lương của người lao động và hay là hoặc buộc người lao động phải tăng năng suất lao động của họ.
Khi đến Indonesia vào giữa năm 2024, tôi đã phỏng vấn công nhân sản xuất, lãnh đạo/người tổ chức công đoàn, cũng như các nhà hoạt động/nhà nghiên cứu lao động ở Jakarta và một số thành phố ở Banten và Tây Java.[1] Cuộc phỏng vấn là một phần trong dự án nghiên cứu của tôi về cách thức người lao động và những tác nhân khác ở các quốc gia như Indonesia bị ảnh hưởng và phản ứng như thế nào đối với “cuộc khủng hoảng” do đại dịch COVID-19 gây ra. Nhưng một phần quan trọng của các cuộc phỏng vấn đã trở thành cuộc trò chuyện về các chiến lược của phong trào lao động Indonesia như một phần trong phong trao lao động ở phía Nam Bán cầu. Nhiều người tham gia phỏng vấn đã trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các cuộc biểu tình phản đối Luật Omnibus. Các nhà lãnh đạo công đoàn mà tôi nói chuyện thuộc một số công đoàn đã khởi xướng phong trào GEBRAK (Phong trào Công nhân vì Nhân dân), một liên minh của một số liên đoàn và liên đoàn công đoàn hợp tác với các tổ chức sinh viên, phụ nữ, môi trường và xã hội dân sự. GEBRAK đã tích cực huy động quần chúng trong các cuộc biểu tình Luật Omnibus, mặc dù đây không phải là lần đầu tiên họ tham gia vào các cuộc biểu tình quần chúng như vậy. Lane (2020, tr. 3) coi chiến lược này là để xây dựng một “phong trào quần chúng đa lĩnh vực rộng lớn”. Nhưng trước khi thảo luận thêm về vấn đề này, chúng ta hãy cùng xem xét một số kinh nghiệm của người lao động Indonesia liên quan đến đại dịch COVID-19.

Khám phá đại dịch
Đến nay, mọi người đều biết rằng đại dịch COVID-19 đã gây ra sự gián đoạn tàn khốc đối với các cấu hình của chuỗi hàng hóa toàn cầu (xem Foster & Suwandi, 2020).[2]Một báo cáo của J.P. Morgan (2022) cho rằng cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng trở nên trầm trọng hơn do xung đột Nga-Ukraine, với những tác động thắt cổ chai đang diễn ra liên tục xảy ra ở một số lĩnh vực, từ kim loại và khai thác đến cung cấp hóa chất. Tuy nhiên, mọi thứ không phải lúc nào cũng rõ ràng khi nói đến việc những cuộc khủng hoảng như vậy đã ảnh hưởng như thế nào đến người lao động tại nơi sản xuất: mối quan hệ giữa những gián đoạn dường như luôn hiện hữu do đại dịch gây ra này với những người lao động Indonesia làm giày, lắp ráp đồ điện tử và sản xuất các mặt hàng khác cho các tập đoàn đa quốc gia là gì? Thật không may, câu trả lời vẫn còn mơ hồ. Trong các chuỗi hàng hóa toàn cầu cực kỳ phức tạp với mục tiêu tăng cường tích lũy vốn trong nền kinh tế thế giới đế quốc này (Smith, 2016; Suwandi, 2019), thì các hiện tượng như đại dịch hoặc xung đột Nga-Ukraine—bất kể là chúng có thể có tác động thực sự hay không —cũng có thể là một lý do biện minh khác để tăng cường bóc lột. Những người tham gia phỏng vấn đã quan sát rằng cách thức biện minh này phát triển mạnh mẽ ở khắp các nhà máy: đại dịch, và đôi khi, xung đột Nga-Ukraine, đã trở thành lý do cho nhiều hoạt động bóc lột khác nhau. Lúc đầu, nhiều công nhân bị sa thải (PHK/Pemutusan Hubungan Kerja). Lý do chính là gì? Nhà máy mà họ làm việc, với tư cách là nhà cung cấp cho một công ty đa quốc gia có trụ sở chính tại Bắc bán cầu, đã có sự sụt giảm đáng kể trong các đơn đặt hàng mua từ khách hàng của họ (công ty đa quốc gia). “Đại dịch” thường được nêu ra như một lý do (và ở mức độ thấp hơn là “chiến tranh Ukraine”), ngụ ý rằng các khách hàng đa quốc gia đang gặp vấn đề về tài chính do doanh số bị ảnh hưởng, vì vậy họ đã giảm đơn đặt hàng. Nhưng điều này rất khó để xác minh, vì thông tin liên quan đến đơn đặt hàng của khách hàng thường được bảo mật.[3] Đôi khi ban quản lý nhà máy viện dẫn sự gián đoạn do đại dịch gây ra là lý do sa thải, nói rằng sản phẩm của khách hàng không vào được thị trường châu Âu hoặc vật liệu được vận chuyển từ các quốc gia khác bị giữ lại tại cảng.
Và có lẽ quan trọng nhất, điều đáng chú ý là ở nhiều nhà máy có một mô hình “di dời” diễn ra sau khi sa thải người làm việc. Chủ nhà máy sẽ di dời nhà máy hoặc xây dựng một nhà máy khác ở một tỉnh khác với mức lương tối thiểu thấp hơn nhiều so với tỉnh hiện tại. Thông thường, nhà máy mới được xây dựng ở Miền Trung Java, chẳng hạn như ở Grobogan. Chỉ riêng điều này đã khiến lý do “đơn hàng giảm” mà ban quản lý đưa ra trở nên đáng ngờ. Nếu không phải là về việc di dời nhà máy, thì một hiện tượng phổ biến khác là thay thế những công nhân bị sa thải bằng những công nhân hợp đồng (BHL/Buruh Harian Lepas) không có bảo đảm việc làm. Ở một số nhà máy, xu hướng chung là thuê “thực tập sinh” (buruh magang), những người thường là học sinh mới tốt nghiệp trung học. Việc chuyển sang những loại công việc bấp bênh này phù hợp với Luật Tổng hợp khuyến khích sự linh hoạt của thị trường lao động và khiến cho việc đảm bảo việc làm cho người lao động trở nên khó khăn hơn.[4]
Tóm lại, sự bóc lột tăng lên thông qua cả việc hạ thấp tiền lương (thông qua việc linh hoạt hóa lao động, chẳng hạn như thông qua việc thuê những công nhân lương thấp hơn ở một tỉnh khác hoặc dưới hình thức công nhân hợp đồng) và thông qua việc tăng năng suất. Ai được hưởng lợi từ tất cả những điều này? Và trong số những người hưởng lợi đó, ai là người thu được nhiều lợi nhuận nhất (gợi ý: ai nắm bắt được nhiều giá trị nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu)? Có lẽ bạn có thể trả lời được cho những câu hỏi này. Đây là những gì mà những người phê bình Luật Omnibus đã chỉ ra. Như một nhà lãnh đạo công đoàn đã nói tới trong cuộc phỏng vấn với tôi, Luật này chẳng khác gì một “thảm đỏ” dành cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Suy ngẫm về Phong trào Lao động Indonesia
Người lao động đã phản ứng như thế nào trước những hành vi bóc lột này? Những công nhân mà tôi phỏng vấn đều là thành viên công đoàn. Vì vậy, họ không chỉ phản ứng mà còn đấu tranh hết sức mình thông qua công đoàn nhà máy của họ, chẳng hạn như thông qua các cuộc đàm phán với ban quản lý. Kinh nghiệm này cần thảo luận ở một bài khác. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là vấn đề rộng hơn liên quan đến cách các nhà lãnh đạo hay các tổ chức công đoàn và các nhà hoạt động hay nhà nghiên cứu lao động nhìn nhận các hiện tượng trên và liên hệ với những quan điểm của riêng họ về phong trào lao động ở Indonesia. Nhìn chung, những người tham gia phỏng vấn nhất trí rằng (1) các hiện tượng như cuộc khủng hoảng do đại dịch COVID-19 đã được dùng để biện minh cho việc các nhà tư bản và cả nhà nước tăng cường các hoạt động bóc lột người lao động, và (2) cần có các chiến lược dài hạn để xây dựng một phong trào lao động mạnh mẽ hơn.
Mặc dù có một số bất đồng, nhưng hầu hết các nhà lãnh đạo hay tổ chức công đoàn (một số trong số họ cũng là công nhân nhà máy tại thời điểm phỏng vấn) và các nhà hoạt động hay nhà nghiên cứu lao động đều đồng ý rằng cần phải có một phong trào rộng hơn chứ không chỉ là một phong trào được nhận thức hẹp hòi của giai cấp công nhân công nghiệp do các công đoàn lãnh đạo. Có một số yếu tố được những người phỏng vấn nêu bật mà tôi có thể tóm tắt ở đây. Trước tiên, chúng ta cần một phong trào lao động toàn diện có thể tiếp cận một bộ phận rộng lớn hơn của xã hội dân sự, đặc biệt là các thành phần tiến bộ và cấp tiến, bao gồm cả nông dân và các tổ chức nữ quyền. Đây là cách chúng ta xây dựng một phong trào mạnh mẽ, và đó là một chiến lược cần thiết để đối mặt với sự áp bức của nhà nước, chẳng hạn như dưới hình thức Luật Omnibus. GEBRAK là một thành tựu có ý nghĩa, và cần có các chiến lược để tiếp tục xây dựng các liên minh như vậy, đặc biệt là những liên minh không chỉ tập trung ở các thành phố lớn. Bản thân các công đoàn lao động phải có khả năng tiếp cận nhiều phân khúc công nhân khác nhau và biết rõ đặc điểm và nhân khẩu học của công nhân để họ có thể điều chỉnh và cập nhật các chiến lược của mình.[5]
Thứ hai, chúng ta cũng cần suy nghĩ về cách khái niệm hóa các yêu cầu cụ thể- có thể xây dựng các chính sách quyền lực khác của riêng chúng ta – để chúng ta có thể vượt ra ngoài vị trí “phòng thủ” (tức là chống lại các quy định áp bức). Tuy nhiên, đối với một số nhà lãnh đạo hay tổ chức công đoàn, điều quan trọng vẫn là xây dựng nền tảng vững chắc cho một cuộc tổng đình công thông qua việc xây dựng nhận thức liên tục tại nơi sản xuất. Do đó, khi công nhân cần đóng cửa sản xuất, thì “cấu trúc đình công” đã có sẵn.
Thứ ba, giáo dục chính trị-kinh tế, giáo dục cơ sở cho công nhân nhằm mục đích xây dựng nhận thức giai cấp – đây là điều rất quan trọng. Một số người tham gia phỏng vấn cho rằng các lớp học hoặc các nhóm thảo luận không chính thức này phải có khả năng đáp ứng nhu cầu của tất cả công nhân, đặc biệt là những người thường bị loại khỏi các hoạt động của công đoàn, như những bà mẹ trải qua hiện tượng ca thứ hai.
Thứ tư, một số nhà hoạt động lao động cũng cho rằng các công đoàn cần suy nghĩ về các chiến lược để khôi phục chức năng của họ như là cơ sở cho các phong trào xã hội. Một phần là do nỗ lực liên tục của nhà nước nhằm làm suy yếu các công đoàn (kể cả sau thời kỳ Trật tự mới của Suharto), các công đoàn đã buộc phải chuyển đổi vai trò của mình thành các cơ quan công tác xã hội. Để thu hút thành viên, nhiều công đoàn cạnh tranh để cung cấp “dịch vụ” tốt nhất cho các thành viên của mình (từ phân phối các gói thực phẩm đến cung cấp dịch vụ xe cứu thương). Với hình thức này, các công đoàn khó có thể tiếp tục là cơ sở cho các phong trào xã hội có ý nghĩa. Quan điểm này được các nhà hoạt động khác đồng tình khi cho rằng các phong trào lao động ở Indonesia có thể hưởng lợi từ việc cánh tả tiếp tục cực đoan hóa và mở rộng mạng lưới của họ để có thể huy động quần chúng.

Lời kết
Đồng tình với suy nghĩ của các thành viên tham gia và tổ chức nhiều cuộc đối thoại hơn giữa người lao động, các nhà hoạt động, các nhà nghiên cứu lao động và các nhà lãnh đạo, các nhà tổ chức công đoàn rất có lợi trong việc xác định hướng đi của các liên minh đang diễn ra—và ngăn chặn sự suy yếu của các liên minh này khi không có vấn đề “cấp bách” nào cần giải quyết, chẳng hạn như các quy định cần bác bỏ hay các cách để xây dựng tinh thần đấu tranh của họ. Cuộc đối thoại này nên được tổ chức thường xuyên trong các cuộc thảo luận cơ sở không chính thức với sự tham gia của nhiều nhóm người lao động khác nhau. Có rất nhiều khát vọng, sự tự phê bình mang tính xây dựng, và kiến thức giá trị – tất cả đều được xây dựng từ những trải nghiệm có ý nghĩa – mà những người tham gia phỏng vấn với tôi đã đưa ra. Tất cả họ đều là những tác nhân quan trọng, trực tiếp hoặc gián tiếp, trong bối cảnh phong trào lao động của Indonesia. Đã đến lúc chúng ta nhận ra tất cả những cân nhắc và khái niệm này để mang lại ánh sáng ngay trong bóng tối.
Intan Suwandi
Intan Suwandi is an assistant professor of Sociology at Illinois State University, USA. She is the author of Value Chains: The New Economic Imperialism, published by Monthly Review Press.
Notes –
[1] Các nhà lãnh đạo/người tổ chức công đoàn thuộc về KSN (Liên đoàn Công đoàn Quốc gia), KASBI (Liên đoàn Liên minh Đại hội Công đoàn Indonesia) và SGBN (Trung tâm Phong trào Công nhân Quốc gia), trong khi các nhà hoạt động/nhà nghiên cứu lao động là những người hiện tại hoặc trước đây có liên kết với LIPS (Trung tâm Nguồn lực Lao động Sedane) và P2RI (Liên minh Đấu tranh của Nhân dân Indonesia).
[2] Vào đầu năm 2020, hơn 90 phần trăm trong số 1000 công ty đa quốc gia Fortune có nhà cung cấp bị ảnh hưởng bởi đại dịch. Đến giữa tháng 4 năm 2020, hơn 80 phần trăm các công ty sản xuất toàn cầu đã gặp phải tình trạng thiếu hụt nguồn cung (Betti & Hong, 2020; Braw, 2020; DeMartino, 2020).
[3]Nhưng khi các công đoàn yêu cầu sự giúp đỡ từ các tổ chức lao động để kiểm tra hiệu suất của khách hàng của nhà máy, ví dụ, họ thấy rằng lợi nhuận của công ty đa quốc gia không bị ảnh hưởng mà còn tăng lên. Trong một số trường hợp, bản thân nhà máy đã có sự gia tăng lợi nhuận, các đại diện công đoàn phát hiện
[4] Có nhiều hoạt động bóc lột khác đã được thảo luận. Một số trong số chúng được hỗ trợ bởi các chính sách của chính phủ; bao gồm việc giảm giờ làm việc của người lao động và do đó, giảm tiền lương của họ (chính sách “không làm việc, không trả lương”), cắt giảm tiền lương lên đến 25 phần trăm trong các ngành công nghiệp hướng đến xuất khẩu thâm dụng lao động và nhiều hoạt động khác mà tôi không thể thảo luận ở đây do không gian có hạn.
[5] Trích dẫn một số nhà hoạt động/nhà nghiên cứu lao động trong các cuộc phỏng vấn của tôi, một công đoàn lao động có cấu trúc cao, phân cấp ngăn cản những người đứng đầu của mình giao tiếp rõ ràng, phù hợp với công nhân tại các địa điểm sản xuất không còn hữu ích trong thời đại linh hoạt hóa lao động ngày nay..
Reference –
Betti, F. & Hong, P.K. (2020, February 27). Coronavirus is disrupting global value chains. Here’s how companies can respond. World Economic Forum. https://www.weforum.org/agenda/2020/02/how-coronavirus-disrupts-global-value-chains
Braw, E. (2020, March 4). Blindsided on the supply side. Foreign Policy. https://foreignpolicy.com/2020/03/04/blindsided-on-the-supply-side/
DeMartino, B. (2020, April 13). COVID-19: Where is your supply disruption? https://futureofsourcing.com/covid-19-where-is-your-supply-disruption
Foster, J.B. & Suwandi, I. (2020). COVID-19 and catastrophe capitalism. Monthly Review, 72(2), 1-20.
Izzati, F.F. (2020, October 13). Kill the bill, or it will kill us all. Progressive International. https://progressive.international/wire/2020-10-13-kill-the-bill-or-it-will-kill-us-all/en
J.P. Morgan. (2022, May 25). What’s behind the global supply chain crisis? https://www.jpmorgan.com/insights/global-research/supply-chain/global-supply-chain-issues.
Lane, M. (2020, November 9). Protests against the Omnibus Law and the evolution of Indonesia’s social opposition. ISEAS Perspective, 128. https://www.iseas.edu.sg/wp-content/uploads/2020/11/ISEAS_Perspective_2020_128.pdf
Paat, Y. & Rivana, G. (2025, March 20). DPR urges dialogue as students protest TNI Law. Jakarta Globe. https://jakartaglobe.id/news/dpr-urges-dialogue-as-students-protest-tni-law
Panimbang, F. (2020, October 21). Indonesia’s return to an authoritarian developmental state. IPS Journal. https://www.ips-journal.eu/topics/democracy/indonesias-return-to-an-authoritarian-developmental-state-4734/
Prasetyo, F.A. (2020, October 17). Neoliberal “Omnibus Law” sparks rebellion in Indonesia. rs21. https://revsoc21.uk/2020/10/17/neoliberal-power-grab-sparks-rebellion-in-indonesia/
Saputra, E.Y. (2025, March 27). Civil society to file judicial review of TNI Law over flawed process, power grab. Tempo. https://en.tempo.co/read/1991283/civil-society-to-file-judicial-review-of-tni-law-over-flawed-process-power-grab
Smith, J. (2016). Imperialism in the twenty-first century. Monthly Review Press.
Suwandi, I. (2019). Value chains: The new economic imperialism. Monthly Review Press.
Tempo. (2025, March 28). Law experts explain why house rushed to pass TNI Law despite public outcry. https://en.tempo.co/amp/1991668/law-experts-explain-why-house-rushed-to-pass-tni-law-despite-public-outcry