Site icon Kyoto Review of Southeast Asia

Các đảng phái ở Indonesia: Hướng tới một nền dân chủ ít có phe đối lập

Vào ngày 20 tháng 10 năm 2024, Prabowo Subianto đã tuyên thệ nhậm chức tổng thống thứ tám của Indonesia sau khi giành được hơn 58% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 2 năm 2024.[1] Ý nghĩa của cuộc bầu cử nằm ở cách các liên minh chính trị đã biến thành các tổ chức đảng cartel đang dẫn dắt Indonesia vào phe đối lập yếu hơn, từ đó đi đến một “nền dân chủ ít có phe đối lập”.

Trong nhiều năm qua, những liên minh này, thường mang tính thực dụng hơn là mang tính lý tưởng, và được thúc đẩy bởi các thỏa thuận chia sẻ quyền lực giữa các nhóm tinh hoa chính trị, đã mở rộng thành các tổ chức cartel để nắm giữ quyền lực.[2] Kết quả của cách tiếp cận này là bỏ qua động lực ban đầu là dân chủ hóa hệ thống bầu cử của Indonesia và thiết lập các biện pháp kiểm tra và cân bằng độc lập. Thay vào đó, cách tiếp cận này cũng củng cố các mạng lưới bảo trợ và làm giảm tính cạnh tranh trong bầu cử.

Mặc dù các liên minh có thể ích lợi cho việc quản lý, nhưng sự biến đổi của các liên minh thành các tập đoàn lại làm suy yếu tính toàn vẹn của bầu cử theo nhiều cách. Cách thúc đẩy sự hợp tác giữa các đảng lớn, chứ không phải thúc đẩy cạnh tranh, dẫn đến việc là kết quả bầu cử được xác định trước.[3] Ở Indonesia, lợi ích của giới tinh hoa thường được ưu tiên hơn các tiến trình dân chủ thực sự, dẫn đến tình trạng trì trệ chính sách và suy giảm phạm vi bầu cử, từ đó cản trở cải cách và thay đổi chính trị một cách đáng kể. [4] Tiếp tay cho một chu kỳ “chính trị loạn luân” ở Indonesia không có gì lạ việc các ứng cử viên đang cạnh tranh – khi nhiệm kỳ tổng thống của họ kết thúc – đã quay sang ủng hộ các đối thủ của mình.

Việc chuyển đổi các liên minh bầu cử thành các tổ chức độc quyền đặt ra những thách thức đáng kể đối với chất lượng của các cuộc bầu cử đa đảng. Nó hạn chế cơ hội cho các ứng cử viên đa dạng và tập trung quyền lực chính trị trong các gia đình tinh hoa. Đặc biệt, sự chuyển đổi đó đồng nhất hóa các nền tảng chính trị và tước quyền cử tri trong việc có những đại diện ủng hộ các quan điểm khác và hoạt động như những sự kiểm tra và cân bằng độc lập.

A polling station in North Jakarta on election day. Photo: Jeromi Mikhael, Wikipedia Commons

Tiến hóa hướng tới các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp

Indonesia bắt đầu quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ vào năm 1998 sau khi Tổng thống, nhà độc tài Suharto từ chức.

Một điểm quan trọng cần lưu ý là trước các cuộc cải cách dân chủ, các tổng thống được Hội đồng tư vấn nhân dân (MPR) lựa chọn. Hội đồng này óng vai trò là Cơ quan lập pháp. MPR trong thời kỳ của Suharto bao gồm các thành viên được bầu từ ba đảng chính trị “được phê chuẩn” và bao gồm các thành viên được bổ nhiệm từ lực lượng vũ trang và đại diện khu vực.

Bacharuddin Jusuf Habibie (BJ Habibie), người từng là phó tổng thống của Suharto, đã trở thành tổng thống sau khi Suharto từ chức vào năm 1998. Với tư cách là Tổng thống, Habibie đã khởi xướng các cải cách quan trọng nhằm vào sự cởi mở và phân cấp chính trị. Đáng chú ý, ông đã tạo ủng hộ cho Luật về các đảng phái chính trị vào năm 1999,[5] cho phép tăng số lượng các đảng phái chính trị, vốn trước đó chỉ giới hạn ở ba đảng dưới thời Suharto.

Nếu như BJ Habibie chọn không tham gia tranh cử tổng thống năm 1999 – một phần là do áp lực từ chính đảng của ông [6] – bản thân cuộc bầu cử đại diện cho một sự chuyển đổi đáng chú ý hướng tới nền dân chủ đa đảng. Theo Luật Đảng phái chính trị mới, 48 đảng đã tranh cử để bầu ra các thành viên của Hội đồng đại diện nhân dân (DPR)[7], vốn là hạ viện của Hội đồng tư vấn nhân dân (MPR).

Megawati Sukarnoputri, con gái cả của tổng thống đầu tiên của Indonesia Sukarno, đã lãnh đạo Đảng Dân chủ đấu tranh Indonesia (PDI-P) và giành được nhiều phiếu bầu nhất nhưng không giành được đa số. Điều này dẫn đến sự tranh giành rộng rãi trong cơ quan lập pháp. Golkar, đảng cầm quyền trước đây, thành lập một liên minh có tên là “Trục trung tâm” để ngăn chặn nỗ lực tranh cử tổng thống của bà. Kết quả là, Abdurrahman Wahid (Gus Dur)[8] trở thành tổng thống và Megawati làm phó tổng thống. Chiến lược ngăn chặn đối thủ cạnh tranh này đã thiết lập một mô hình trong nền chính trị Indonesia, nơi các đảng ưu tiên các liên minh chia sẻ quyền lực hơn là các cam kết về mặt ý thức hệ đối với nền dân chủ.

Gus Dur là tổng thống đầu tiên được quốc hội Indonesia bầu lên một cách tự do. Nhiệm kì của ông là hai năm. Dưới thời ông, Cơ quan lập pháp đã thiết lập một số cải cách ủng hộ dân chủ, công nhận tình trạng tự trị của các khu vực Indonesia và đưa ra các cuộc bầu cử trực tiếp cho các nhà lãnh đạo khu vực. Nó cũng hạn chế quyền lập pháp của tổng thống và cấm văn phòng này giải tán quốc hội.[9] Nhìn chung, ông có được đa số ghế trong quốc hội, thể hiện qua “Nội các đoàn kết dân tộc” của ông. Nội các này bao gồm các đảng đại diện cho 436 trong số 462 thành viên được bầu tại DPR vào cuối nhiệm kỳ tổng thống của ông.[10]

Tuy nhiên, sự nổi tiếng của Gus Dur đã giảm sút do những cáo buộc về những sai trái trong quản lý quỹ chính phủ. Ông bị luận tội vào ngày 23 tháng 7 năm 2001.[11] Việc luận tội cũng được là do ông không chú ý xây dựng mối quan hệ và chia sẻ quyền lực giữa các đảng cầm quyền. Những nỗ lực củng cố quyền lực của ông đã đẩy xa các đối tác chính trị quan trọng.[12]

Sau đó, MPR đã bầu Megawati Sukarnoputri làm tổng thống. Từ năm 2001 đến năm 2004, với sự đảm bảo của các đối tác liên minh rằng bà sẽ không bị luận tội, Megawati đã ủng hộ rộng rãi các đảng vốn đã đã từng ủng hộ Gus Dur. Nội các dưới thời bà được gọi là “Nội các tương trợ lẫn nhau”.[13] Dưới nhiệm kỳ của bà, một loạt cải cách chính trị bổ sung đã được thông qua,[14] bao gồm một cơ chế bầu cử tiếp tổng thống và phó tổng thống trực tiếp. Hạn ngạch trong MPR dành cho lực lượng vũ trang và các đại diện được bổ nhiệm khác cũng bị xóa bỏ.[15]

Vấn đề tương tự vốn từng gây khó khăn cho liên minh của Gus Dur – sự thỏa hiệp và chia sẻ quyền lực không đủ giữa các đảng – cũng đã nuôi dưỡng sự thù địch đối với Megawati và PDI-P. Sự bất mãn này đã dẫn  dến việc việc Đảng Dân chủ đề cử Susilo Bambang Yudhoyono (thường được gọi là SBY) để tranh cử trong cuộc bầu cử năm 2004, cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đầu tiên.[16]

General Elections Commission (KPU) workers unloading ballot boxes near a polling station in North Jakarta, Indonesia, the day before the 2024 Indonesian general election. Photo: Juxlos, Wikipedia Commons

Sự liên minh chặt chẽ của các cuộc bầu cử

Năm 2004, SBY, một vị tướng đã nghỉ hưu của Đảng Dân chủ, đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống. Sau chiến thắng của mình, Tổng thống SBY đã thành lập Nội các Indonesia Thống nhất (Kabinet Indonesia Bersatu) và có một liên minh rộng lớn tương tự như dưới thời ba vị tổng thống trước. Nội các SBY bao gồm các đảng đại diện cho 403 ghế trong số 560 ghế.[17]

Sau sự cố với Megawati, PDI-P nổi lên như đảng đối lập lớn đầu tiên trên chính trường lập pháp. Tuy nhiên, khái niệm “phe đối lập” dần dần bị pha loãng trong các cuộc bầu cử sau đó. Ví dụ, thành phần nội các, do các đảng đã thành lập như Golkar, Đảng Ủy nhiệm Quốc gia (PAN) và Đảng Công lý Thịnh vượng (PKS) chi phối, đã hạn chế vai trò hiệu quả của phe đối lập, đặc biệt là loại trừ PDI-P khỏi ảnh hưởng đáng kể. Điều này làm giảm các lựa chọn khác  của cử tri bên ngoài liên minh cầm quyền. Nó hạn chế một cách đáng kể sự cạnh tranh chính trị và hạn chế không gian cho các đảng nhỏ hơn trong việc thách thức ảnh hưởng của liên minh.

Trong các cuộc bầu cử sau đó cũng xu hướng cũng tương tự. Trong cuộc bầu cử năm 2009, Tổng thống đương nhiệm SBY và Đảng Dân chủ của ông một lần nữa giành chiến thắng trong cuộc bầu cử. Mặc dù đảng của ông không giành được đa số tuyệt đối, nhưng lại giành được nhiều ghế nhất. SBY thúc đẩy việc thành lập nội các thứ hai – phần lớn bao gồm các đảng tương tự. PDI-P vẫn là phe đối lập, cùng với đảng Gerindra vốn được thành lập ngay trước cuộc bầu cử để cạnh tranh với SBY. Nội các thứ hai của SBY – “Nội các Indonesia thống nhất thứ hai” chứng kiến ​​liên minh của ông đại diện cho 342 ghế tại DPR.[18] Chiến lược liên minh này giúp Tổng thống SBY củng cố vị thế của mình trong nhiệm kỳ thứ hai. Chiến lược đó cũng củng cố xu hướng các đảng phái Indonesia ưu tiên các liên minh mang tính thực dụng để chia sẻ quyền lực và duy trì quyền quản lý trong khi vẫn tiếp tục làm suy yếu phe đối lập chính trị.

Sau hai nỗ lực thách thức SBY trong các cuộc bầu cử tiếp theo không thành công, Megawati đã chuyển sự tập trung sang vai trò là người “tạo vua” bằng cách ủng hộ ứng cử viên nổi tiếng của đảng mình, Joko Widodo (thường được gọi là Jokowi) trong cuộc bầu cử năm 2014. Jokowi đã đánh bại Prabowo Subianto của Gerindra, con rể của cựu tổng thống Suharto, để trở thành tổng thống.[19]

Sau cuộc bầu cử, Jokowi phải đối mặt với những thách thức trong việc thành lập một liên minh cầm quyền trong bối cảnh quốc hội bị chia cắt. Tuy nhiên, Jokowi và PDI-P đã ve vãn một loạt các đảng vừa và nhỏ nhưng lờ đi Đảng Dân chủ của SBY, Gerindra và Golkar, những đảng đã giành được phần lớn số ghế. Sau đó, bằng cách sử dụng công cụ cải tổ nội các, Jokowi đã có thể đưa Golkar vào và loại trừ Đảng Ủy nhiệm Quốc gia (PAN) vốn không hợp tác. Vào cuối nhiệm kỳ đầu tiên của Jokowi, “Nội các làm việc” của ông đã đại diện cho 386 trong số 560 ghế của DPR.[20] Một lần nữa, điều này thể hiện một chiến lược hướng đến việc kiềm chế các thành phần và những ảnh hưởng đối lập.

Cuộc bầu cử năm 2019 tại Indonesia dẫn đến sự tiếp tục của chính quyền Tổng thống Jokowi. Cuộc bầu cử này được đánh dấu bằng một số lượng lớn các đảng phái tranh cử, với 16 đảng tham gia cuộc đua tổng thống và hơn 200 đảng trong cuộc đua bầu cử lập pháp.[21]​ Sau cuộc bầu cử, một mạng lưới liên minh phức tạp đã xuất hiện. Vào thời điểm nhiệm kỳ thứ hai của Jokowi, “Nội các Indonesia tiến lên” bao gồm hầu hết các đảng lớn của những khối liên minh số với 525 trong số 575 ghế của DPR[22]. Điều này một lần nữa duy trì số lượng phe đối lập ở mức khiếm tốn. Đáng chú ý, trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, Jokowi đã thu hút được các đảng đối lập như Gerindra của Prabowo – mặc dù đây là đối thủ chính của Jokowi trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2014 và 2019 – thông qua lời hứa chia sẻ quyền lực chính trị.[23] Jokowi bổ nhiệm Prabowo làm Bộ trưởng Quốc phòng sau khi thành lập nhóm quản lý thứ hai.[24] Trong những ngày cuối cùng của chính quyền, Jokowi đã thay thế hai bộ trưởng mà ông cho là không trung thành với ông và không trung thành với tổng thống đắc cử Prabowo.[25]

Nhìn chung, hai nhiệm kỳ của Tổng thống Jokowi được đánh dấu bằng sự suy giảm tiếng nói của phe đối lập trong chính trường. Cách tiếp cận theo hướng cartel hóa để đảm bảo sự thống trị trong cơ quan lập pháp phải trả giá với việc làm suy yếu và gạt phe đối lập ra ngoài lề. Bằng cách ưu tiên kiểm soát cơ quan lập pháp để thông qua các đạo luật nhằm đảm bảo việc áp dụng chính sách đồng thời làm loãng khả năng của phe đối lập trong vai trò là những sự kiểm tra và cân bằng hiệu quả, thì bản chất của một nền dân chủ đa đảng đang bị mất đi.[26]

Official portrait of Prabowo Subianto Djojohadikusumo as a presidential candidate of the Republic of Indonesia in 2024. Wikipedia Commons

Cuộc bầu cử năm 2024 và nhiệm kỳ tổng thống của Prabowo

Sau hai lần không thành công, Prabowo đã giành được chức tổng thống Indonesia trong cuộc bầu cử năm 2024, với 58% số phiếu bầu. Ông đã thay thế Jokowi, người không đủ điều kiện để tái tranh cử do giới hạn nhiệm kỳ.

Cuộc bầu cử năm 2024 là một trường hợp mà một đối thủ cạnh tranh trở thành người ủng hộ. Sau khi đưa Gibran Rakabuming Raka, con trai cả của mình, làm ứng cử viên phó tổng thống, Tổng thống Jokowi tận dụng sức mạnh chức vụ của mình để ủng hộ chiến dịch của Prabowo và trở thành người có vai trò quan trọng trong chiến thắng của Prabowo.

Tuy nhiên, chiến thắng của Prabowo là một sự rời đi khỏi các nguyện vọng dân chủ sau kể từ các cuộc cải cách sau năm 1998. Cuộc bầu cử phản ánh xu hướng củng cố chính trị rộng lớn hơn, trong đó những nhân vật quyền lực có thể định hình kết quả bầu cử thông qua các liên minh chiến lược. Tính đến tháng 10 năm 2024, Tổng thống Prabowo, thông qua “Nội các Đỏ và Trắng” của ông, đã ve vãn tất cả các đảng phái chính trị được đại diện tại DPR ngoại trừ PDI-P do Megawati lãnh đạo, Đảng Dân chủ Quốc gia (NasDem) và Đảng Công lý Thịnh vượng (PKS).[27] Điều này có nghĩa là Tổng thống Prabowo chiếm đa số 348 trong số 580 ghế được bầu tại DPR.[28] Tuy nhiên, Prabowo đã đề nghị PDI-P tham gia liên minh chính trị của ông.[29] Mặc dù từ chối tham gia, PDI-P đã đồng ý ủng hộ chương trình ngân sách hàng năm  của chính phủ.[30] Tương tự như vậy, mặc dù không tham gia, cả NasDem và PKS cũng bày tỏ “sự ủng hộ hoàn toàn” đối với chính quyền Prabowo.[31]

Điều này thực sự đã biến Indonesia thành một “nền dân chủ không có phe đối lập”.

Những diễn biến này báo hiệu sự xói mòn sâu sắc của nền quản trị dân chủ. Nếu không bị thách thức, chính quyền Prabowo sẽ mở ra một giai đoạn mà chủ nghĩa đa nguyên chính trị bị suy yếu và trách nhiệm giải trình bị giảm sút, đặc biệt trong bối cảnh nếu phe đối lập thực sự bị gạt ra ngoài lề trong quá trình lập pháp. Những thay đổi đang diễn ra cho thấy rằng sự cạnh tranh chính trị trong tương lai ở Indonesia có thể ngày càng bị hạn chế, với các liên minh chiến lược sẽ ngăn chặn hiệu quả  những sự kiểm tra độc lập và cân bằng độc lập.

Indonesian parliament assembly building, akarta Indonesia. Photo: Hery Ry, Shutterstock

Kết luận

Ở Indonesia, sự phát triển của các liên minh chính trị thành các tổ chức độc quyền đã làm loãng đáng kể sự cạnh tranh chính trị, khiến cho phe đối lập suy yếu, từ đó chuyển sang một “nền dân chủ không có phe đối lập”.

Trong một nền dân chủ bầu cử, việc thành lập các liên hợp và liên minh chính trị là một thông lệ phổ biến cho phép các đảng phái khác nhau – thường liên kết với nhau bởi một số điểm chung về ý thức hệ – hợp tác và đạt được các mục tiêu chung. Tuy nhiên, kể từ đầu những năm 2000, các liên minh chính trị ở Indonesia thường được thành lập giữa các đảng phái vốn trước đây từng tham gia vào cuộc cạnh tranh gay gắt.

Những liên minh này có thể được mô tả như các tổ chức chính trị, tập trung vào các thỏa thuận chia sẻ quyền lực sau bầu cử vốn được thiết kế để phân bổ quyền lực nhà nước và nguồn lực nhà nước cho nhiều đảng phái đối lập khác nhau. Nhưng những liên minh này thường thiếu một chiến lược chính trị gắn kết hoặc thiếu sự liên kết.[32] Tương tự như các tập đoàn kinh tế, các liên minh này nỗ lực củng cố quyền kiểm soát và giảm sự cạnh tranh.

Trong bối cảnh chính trị không có phe đối lập hiệu quả, ngày càng có nhiều mối đe dọa rằng các luật mới và quy định mới sẽ được ban hành để kìm hãm những thành phần muốn chính phủ phải chịu trách nhiệm công khai. Nguy cơ đến từ các chính trị gia, các tác nhân xã hội dân sự và các nhà báo, những người nêu lên mối lo ngại về tương lai của sự tham gia dân chủ và trách nhiệm giải trình ở Indonesia.[33] Khi chính quyền Prabowo nắm quyền điều hành chính phủ, nguy cơ tạo ra một môi trường đàn áp hơn đang hiện hữu và nó thách thức triển vọng những cải cách chính trị có ý nghĩa và thách thức sự tham gia của người dân.

Kartini Sunityo, Asia Centre

NOTES

[1] The Jakarta Post (2024) ‘BREAKING: KPU confirms Prabowo’s landslide win’, The Jakarta Post, at: https://www.thejakartapost.com/indonesia/2024/03/20/breaking-kpu-confirms-prabowos-landslide-win.html.

[2] Ibid.

[3] Burhanuddin Muhtadi (2022) ‘Indonesia’s Cabinet reshuffle: Rewarding loyalty and consolidating power’, Fulcrum, at: https://fulcrum.sg/indonesias-cabinet-reshuffle-rewarding-loyalty-and-consolidating-power.

[4] Thomas Pepinsky (2024) ‘Indonesia’s election reveals its democratic challenges’, Brookings Institute, at: https://www.brookings.edu/articles/indonesias-election-reveals-its-democratic-challenges.

[5] “Law of Republic of Indonesia No.2 of the Year 1999 Concerning Political Parties” (1999), in Collection of Electoral Laws, Jakarta, Indonesia: National Election Commission, 1–20, at: https://aceproject.org/ero-en/regions/asia/ID/Indonesia%20Electoral%20Law%201999.pdf.

[6] Taipei Times (1999) ‘Habibie’s speech doesn’t go over well with assembly’, Taipei Times, at: https://www.taipeitimes.com/News/front/archives/1999/10/16/0000006629; Geoff Spencer (1999) ‘Indonesia’s Habibie withdraws’, AP News via Way Back Machine, at: https://web.archive.org/web/20201129140803/https://apnews.com/article/219ba3630e874ce89b1f270942cd9f56

[7] National Democratic Institute (1999) ‘The 1999 Presidential Election and Post-election Developments in Indonesia: A Post-Election Assessment Report’, The Cater Center, at: https://www.cartercenter.org/resources/pdfs/news/peace_publications/election_reports/indonesia-mission-1999.pdf.

[8] Gus Dur was an important member of the Reformasi movement and founder of the moderate Islamic party, Partai Kebangkitan Bangsa (PKB) or the National Awakening Party.

[9] Ari Welianto (2020) ‘Amandemen UUD 1945: Tujuan dan Perubahannya [Amendment to the 1945 Constitution: Aims and Changes]’, Kompas, at: https://www.kompas.com/skola/read/2020/02/06/140000869/amandemen-uud-1945-tujuan-dan-perubahannya?page=all.

[10] Yuri Sato et al. (eds.) (2000) ‘Appendix’, in Indonesia Entering a New Era, Spot Survey No. 17, Institute of Developing Economies, Japan External Trade Organisation, at: https://www.ide.go.jp/English/Publish/Reports/Spot/17.html; R. William Liddle (2001) ‘Indonesia in 2000: A Shaky Start for Democracy’, Asian Survey 41(1): 208 – 220, at: https://library.fes.de/libalt/journals/swetsfulltext/14218780.PDF;

[11] Kornelius Purba (2021) ‘Impeaching Gus Dur, a blind but visionary president’, The Jakarta Post, at: https://www.thejakartapost.com/academia/2021/07/29/impeaching-gus-dur-a-blind-but-visionary-president.html

[12] Irman G. Lanti (2002) ‘Indonesia: The Year of Continuing Turbulence’, Southeast Asian Affairs: 111–129, at:https://www.jstor.org/stable/27913204.

[13] Dan Slater (2018) ‘Party Cartelisation, Indonesian-style: Presidential Power-sharing and the Contingency of Democratic Opposition’, Journal of East Asian Studies 18(1): 23–46, at: doi:10.1017/jea.2017.26.

[14] Iswara N. Raditya (2020) ‘Amandemen UUD 1945 Tahun 2002: Sejarah Isi & Perubahan Keempat [Amendment to the 1945 Constitution of 2002: History & Fourth Amendment]’, Tirto.id, at: https://tirto.id/amandemen-uud-1945-tahun-2002-sejarah-isi-perubahan-keempat-ejLE.

[15] VOA News (2009) ‘Indonesia agrees to remove police, army parliamentary seats – 2002-08-14’, VOA News, at: https://www.voanews.com/a/a-13-a-2002-08-14-31-indonesia-67435947/384410.html.

[16] Alan Sipress (2004) ‘President head for defeat in Indonesia vote’, Washington Press, at: https://www.washingtonpost.com/archive/politics/2004/09/21/president-heads-for-defeat-in-indonesia-vote/0fff35f9-fbd0-4675-9b5a-0cbbf8d55eb9.

[17] Willy Wahyu Astuti (2024) ‘The President’s Prerogative Rights in Appointing Ministers in the Presidential Government System After the Amendment to the 1945 Constitution’, International Journal of Multicultural and Multireligious Understanding 11(6): 129–140, at: https://ijmmu.com/index.php/ijmmu/article/view/5813.

[18] Andreas Ufen (2010) ‘The Legislative and Presidential Elections in Indonesia in 2009’, Electoral Studies 29(2): 281–285, at: https://doi.org/10.1016/j.electstud.2010.02.003; Willy Wahyu Astuti (2024) ‘The President’s Prerogative Rights in Appointing Ministers’.

[19] KPU (2014) ‘Hasil Penghitungan Perolehan Suara dari Setiap Provinsi dan Luar Negeri dalam Pemilu Presiden dan Wakil Presiden Tahun 2014 diisi Berdasarkan Formulir Model DC PPWP dan Sertifikat Luar Neger [Vote Counting Results from each Province and Overseas in the 2014 Presidential and Vice Presidential Elections Filled in Based on the Model DC PPWP Forms and Overseas Certificates]’, KPU, at: https://www.kpu.go.id/koleksigambar/PPWP_-_Nasional_Rekapitulasi_2014_-_New_-_Final_2014_07_22.pdf.

[20] Sigit Joyowardono (2014) ‘Buku Data dan Infografik Pemilu Anggota DPR RI & DPD RI 2014 [Data Book and Infographics for the 2014 DPR RI & DPD RI Elections]’, Jakarta, Indonesia: KPU; McLarty Associates (2019) ‘McLarty Indonesia Update: Jokowi announces new Cabinet’, McLarty Associates, at: https://maglobal.com/jokowi-new-cabinet; Francis Chan (2018) ‘Indonesian president Jokowi reshuffles Cabinet, appoints Golkar sec-gen, former military chief’, The Straits Times, at: https://www.straitstimes.com/asia/se-asia/indonesian-president-jokowi-reshuffles-cabinet-appoints-golkar-sec-gen-and-former.

[21] Ben Bland (2019) ‘Politics in Indonesia: Resilient elections, defective democracy’, Lowy Institute, at: https://www.lowyinstitute.org/publications/politics-indonesia-resilient-elections-defective-democracy; Muhammad Bahrul Ulum (2020) ‘Indonesian Democracy and Political Parties Afte Twenty Years of Reformation: A Contextual Analysis’, Indonesia Law Review 10(1), at: DOI: 10.15742/ilrev.v10n1.577.

[22] James Massola (2019) ‘From enemies to allies in six short months: Jokowi to invite Prabowo into cabinet’, The Sydney Morning Herald, at: https://www.smh.com.au/world/asia/from-enemies-to-allies-in-six-short-months-jokowi-to-invite-prabowo-into-cabinet-20191022-p532vf.html; Metro TV (2024) ‘Membaca maksud Jokowi tarik Demokrat ke Kabinet’, Metro TV, at: https://www.metrotvnews.com/play/NgxCVrRG-membaca-maksud-jokowi-tarik-demokrat-ke-kabinet.

[23] Muhtadi (2022) ‘Indonesia’s Cabinet reshuffle’.

[24] Marchio Irfan Gorbiano (2019) ‘Jokowi officially asks Gerindra to join new Cabinet: Prabowo’, The Jakarta Post, at: https://www.thejakartapost.com/news/2019/10/21/gerindras-prabowo-ready-to-contribute-to-jokowis-cabinet.html; Aljazeera (2019) ‘Indonesia’s Widodo appoints archrival as defence minister’, Aljazeera, at: https://www.aljazeera.com/news/2019/10/23/indonesias-widodo-appoints-archrival-as-defence-minister.

[25] The Nation Thailand (2024) ‘President Jokowi removes PDI-P ministers in reshuffle two months before exit’, The Nation Thailand, at: https://www.nationthailand.com/news/asean/40040722.

[26] Bland (2019) ‘Politics in Indonesia’.

[27] Kennedy Muslim and Burhanuddin Muhtadi (2024) ‘President Prabowo’s politics of accommodation might mean a short honeymoon’, Fulcrum, at: https://fulcrum.sg/president-prabowos-politics-of-accommodation-might-mean-a-short-honeymoon.

[28] KPU (2024) ‘Decision of KPU No. 1043 of 2024’, KPU, at: https://jdih.kpu.go.id/data/data_kepkpu/2024kpt1043.pdf.

[29] Stanley Widianto (2024) ‘Prabowo gets support from PDI-P, but no coalition deal yet’, The Jakarta Post, at: https://www.thejakartapost.com/indonesia/2024/10/17/prabowo-gets-support-from-pdi-p-but-no-coalition-deal-yet.html.

[30] Yustinus Patris Paat (2024) ‘Don’t be so quick to judge: PDI-P on Prabowo’s giant cabinet’, JakartaGlobe.id, at: https://jakartaglobe.id/news/dont-be-so-quick-to-judge-pdip-on-prabowos-giant-cabinet.

[31] Wiji Nur Hayat (2024) ‘NasDem pilih tak masuk ke Kabinet Prabowo, ini alasan lengkapnya [NasDem chose not to enter Prabowo’s Cabinet, this is the complete reason]’, CNBC Indonesia, at: https://www.cnbcindonesia.com/news/20241014141220-4-579419/nasdem-pilih-tak-masuk-ke-kabinet-prabowo-ini-alasan-lengkapnya; PKS (2024) ‘PKS sampaikan dukungan penuh kepada Presiden terpilih Prabowo Subianto [PKS conveys its full support to President-elect Prabowo Subianto]’, PKS, at: https://pks.id/content/pks-sampaikan-dukungan-penuh-kepada-presiden-terpilih-prabowo-subianto.

[32] Lestari (2016) ‘Cartel Party’.

[33] Aljazeera (2024) ‘Protests across Indonesia as parliament delays change to election law’, Aljazeera, at: https://www.aljazeera.com/gallery/2024/8/22/protests-across-indonesia-as-parliament-delays-change-to-election-law.

Exit mobile version